Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2009

Bạt nông nghiệp có tác dụng gì?

Bạc nông nghiệp còn gọi là màng phủ nông nghiệp. Bạc có một mặt màu đen, một mặt màu trắng bạc. Mặt màu trắng bạc được đặt phía trên, nhằm phản chiếu ánh sáng, xua đuổi côn trùng chích hút.

Ngoài tác dụng xua đuổi côn trùng chích hút, bạc nông nghiệp còn có một số tác dụng khác: hạn chế bốc hơi nước, giảm lượng nước tưới; giữ nhiệt độ và ẩm độ thích hợp cho rễ cây phát triển, hạn chế xói mòn đất và rửa trôi phân bón, hạn chế sâu bệnh và cỏ dại.

Tóm lại, màng phủ nông nghiệp có 5 tác dụng chính. Vì hiệu quả cao như vậy nên việc sử dụng màng phủ nông nghiệp trong sản xuất cây rau màu rất phổ biến.

KS. Trương Quang Hoàng

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2009

Khử lẫn là gì?

Tại sao phải khử lẫn?
Lẫn giống làm giảm phẩm chất hạt giống, ảnh hưởng xấu đến năng suất vụ sau. Do đó, để đảm bảo độ thuần (rặt giống), duy trì và củng cố các đặc tính tốt, ổn định và nâng cao năng suất lúa trước khi thu hoạch ta cần phải khử giống.

Khi nào thì ta khử lẫn giống?
Khi hạt giống bị lẫn tạp qua nhiều khâu (như đập, phơi, vận chuyển, tồn trữ, những hạt lúa rơi rụng, còn sót lại trong đất của vụ trước,...), hạt giống bị tạp giao (mặc dù xác suất thấp, khoảng 1 – 5 phần nghìn), hạt giống bị biến dị.

Khử giống là khử cái gì?
Khử giống là loại bỏ những cây lúa có dạng hình đặc biệt khác với cây lúa đúng giống như trổ và chín không đồng loạt; iều cao cây không đồng đều; dạng cây, dạng lá, dạng bông, dạng hạt khác với giống ban đầu hoặc di hình.
KS. Trương Quang Hoàng

Sâu bệnh trên cây dưa hấu


Cây dưa hấu trồng được quanh năm, tuy nhiên mùa vụ dưa hấu tết được bà con nông dân trồng với diện tích nhiều nhất. Để vụ dưa hấu tết đạt được năng suất cao, chúng ta nên phòng ngừa một số sâu bệnh thường xảy ra trong vụ này như sau:
* SÂU HẠI
Rầy lửa, bọ trĩ, bù lạch (Thrips palmi Karny)
Triệu chứng chùn đọt trên dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)- Thành trùng và ấu trùng rất nhỏ có màu trắng hơi vàng, sống tập trung trong đọt non hay mặt dưới lá non, chích hút nhựa cây làm cho đọt non bị xoăn lại. Thiệt hại này kết hợp với triệu chứng do rệp dưa làm cho đọt non bị sượng, ngẩng đầu lên cao mà nông dân thường gọi là ”bắn máy bay hay đầu lân”. Khi nắng lên bù lạch ẩn nấp trong kẻ đất hoặc rơm rạ. Thiệt hại do bọ trĩ, bọ dưa có liên quan đến bệnh siêu trùng.
- Bù lạch sẽ phát triển mạnh vào thời kỳ khô hạn. Thiệt hại này cũng xảy ra ở những vùng chuyên canh rất trầm trọng. Nên trồng đồng loạt và tránh gối vụ, kiểm tra ruộng dưa thật kỹ để phát hiện sớm ấu trùng bù lạch.
- Bù lạch có tính kháng thuốc rất cao, nên thay đổi thuốc thường xuyên phun Confidor 100SL, Admire 50EC...0.5 - 1%o, Danitol 10EC 0.5-1%o.

Bọ rầy dưa (Aulacophora similis)
- Thành trùng có cánh cứng, màu vàng cam, dài 7-8mm, sống lâu 2-3 tháng, đẻ trứng dưới đất quanh gốc cây dưa, hoạt động ban ngày, ăn cạp lá thường gây thiệt hại nặng khi cây dưa còn nhỏ đến lúc cây có 4-5 lá nhám. Âu trùng có màu vàng lợt, đụt vào trong gốc cây dưa làm dây héo chết.
- Có thể bắt bằng tay vào sáng sớm khi cây dưa còn nhỏ, để tránh lây lan sang vụ sau cần thu gom tiêu hủy cây dưa sau mùa thu hoạch, chất thành đống để dẫn dụ bọ dưa tập trung rồi phun thuốc. Rãi thuốc hột như Sumi-alpha, Baythroit 5SL, Admire 50 EC 1-2 %o.

Rệp dưa, rầy nhớt (Aphis gossypii Glover)
Còn được gọi là rầy mật, cả ấu trùng lẫn thành trùng đều rất nhỏ, dài độ 1-2mm, có màu vàng, sống thành đám đông ở mặt dưới lá non từ khi cây có 2 lá mầm đến khi thu hoạch, chích hút nhựa làm cho ngọn dây dưa chùn đọt và lá bị vàng. Rầy truyền các loại bệnh siêu vi khuẩn như khảm vàng.

Ấu trùng, thành trùng không cánh và có cánh (Nguồn: NSW Agriculture)
Chúng có rất nhiều thiên địch như bọ rùa, dòi, kiến, nhện nấm.. nên chỉ phun thuốc khi nào mật số quá cao ảnh hưởng đến năng suất. Phun các loại thuốc phổ biến như trừ bọ rầy dưa.
Sâu ăn tạp, sâu ổ, sâu đàn (Spodoptera litura)
- Thành trùng là loại bướm đêm rất to, cánh nâu, giữa có một vạch trắng. Trứng đẻ thành từng ổ hình tròn ở mặt dưới phiến lá, có lông vàng nâu che phủ. Sâu non lúc nhỏ sống tập trung ở mặt dưới phiến lá nên gọi là sâu ổ, khi lớn lên phân tán dần, mình có màu xám với khoan đen lớn ở trên phía lưng sau đầu, ăn lủng lá có hình dạng bất định, hoặc cắn đứt ngang thân cây con. Sau đó sâu thường chui vào sống trong đất, ẩn dưới các kẻ nứt hay rơm rạ phủ trên mặt đất, nhộng ở trong đất.
- Nên làm đất kỹ trước khi trồng vụ sau để diệt sâu và nhộng còn sống trong đất, xử lý đất bằng thuốc hạt. Có thể ngắt bỏ ổ trứng hay bắt sâu non đang sống tập trung.
- Nên thay đổi loại thuốc thường xuyên, phun vào giai đoạn trứng sắp nở sẽ cho hiệu quả cao: Sumicidin 10EC, Cymbus 5EC, Karate 2.5EC, Fenbis 2.5 EC, Decis 2.5 EC... 1 - 2%o có thể pha trộn với Atabron 5EC từ 2-3 cc/bình xịt 8 lít.
Sâu ăn lá (Diaphania indica)
- Bướm nhỏ, màu nâu, khi đậu có hình tam giác màu trắng ở giữa cánh, hoạt động vào ban đêm và đẻ trứng rời rạc trên các đọt non. Trứng rất nhỏ, màu trắng, nở trong vòng 4-5 ngày. Sâu nhỏ, dài độ 8-10mm, màu xanh lục có sọc trắng đặc sắc ở giữa lưng, thường nhả tơ cuốn lá non lại và ở bên trong ăn lá hoặc cạp vỏ trái non. Sâu đủ lớn, độ 2 tuần làm nhộng trong lá khô.
- Phun thuốc ngừa bằng các loại thuốc phổ biến trên đọt non và trái non khi có sâu xuất hiện rộ như thuốc trừ rệp dưa, bọ rầy dưa.


* BỆNH HẠI

Bệnh chạy dây, ngủ ngày, chết muộn, héo rũ (do nấm Fusarium oxysporum Schlechtendahl)
- Cây bị mất nước, chết khô từ đọt, thân đôi khi bị nứt, trên cây con bệnh làm chết rạp từng đám. Trên cây trưởng thành, nấm gây hại từ thời kỳ ra hoa đến tượng trái, cây dưa bị héo từng nhánh rồi chết cả cây sau đó hoặc héo đột ngột như bị thiếu nước. Vi sinh vật lưu tồn trong đất nhiều năm, bệnh này có kiên quan ít nhiều đến tuyến trùng và ẩm độ đất. Nấm Phytophthora sp. cũng ghi nhận gây hại cho bệnh này. Nên lên liếp cao, làm đất thông thoáng, bón thêm phân chuồng, tro trấu, nhổ cây bệnh tiêu hủy.
- Phun Copper-B, Derosal 60WP, Rovral 50W, Topsin -M 50WP, Zin 80WP... 2 -3%o hoặc Appencarb, Supper 50FL, Alliette 80WP, Ridomil 25WP, Curzate M8 ... 1-2%o tưới vào gốc.
- Rãi Basudin 10 H 1-2 kg/1.000m2 trừ tuyến trùng
- Tránh trồng dưa hấu và các cây cùng nhóm như bí đỏ, bó đao, dưa leo... liên tục nhiều năm trên cùng một thửa ruộng.
Bệnh héo cây con, héo tóp thân (do nấm Rhizoctonia sp.)
- Cổ rễ bị thối nhũng, cây dễ ngã, lá non vẫn xanh. Nấm chỉ gây hại ở giai đoạn cây con, bệnh còn làm thối đít trái. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm độ cao, nấm lưu tồn trên thân lúa, rơm rạ, cỏ dại, lục bình, hạch nấm tồn tại trong đất sau mùa gặt lúa.
- Phun, Validacin 5L, Anvil 5SC, Rovral 50WP, Ridomil 25 WP 1 - 2%o; Copper -B 2 - 3%o, Tilt super 250 ND, Bonanza 100 (các loại thuốc trị bệnh đốm vằn trên lúa đều trị được bệnh này)
Bệnh thán thư (do nấm Colletotrichum lagenarium)
- Bệnh gây hại trên lá trưởng thành, vết bệnh có vòng tròn nhỏ đồng tâm, màu nâu sẩm, quan sát kỹ thấy những chấm nhỏ nhỏ li ti màu đen tạo thành các vòng đồng tâm, trên cuống lá và thân cũng có những vết màu nâu. Vết bệnh trên trái có màu nâu tròn lõm vào da, bệnh nặng các vết này liên kết thành mảng to gây thối trái. Bệnh xuất hiện nặng và thời điểm trồng dưa sớm vụ Noel do trời còn mưa hoặc ruộng tưới quá nhiều nước, ẩm độ cao.
- Phun Manzate 200, Mancozeb 80WP, Antracol 70W, Curzate M8, Copper-B, Topsin-M, Benlat-C 50WP nồng độ 2-3%o.
Bệnh bả trầu, nứt thân chảy nhựa (do nấm Mycosphaerella melonis)
- Bệnh này nông dân còn gọi là đốm lá gốc hay bả trầu. Vết bệnh lúc đầu là những chấm nhỏ màu nâu nằm thành từng đám như bị phun cổ trầu lên lá, vết bịnh ở bìa lá thường bị cháy nâu, sau đó héo khô. Trên thân nhất là nhánh thân, có đốm màu vàng trắng, hơi lỏm, làm khuyết thân hay hay nhánh nơi bị bệnh. Nhựa cây ứa ra thành giọt, sau đó đổi thành màu nâu đen và khô cứng lại, vỏ thân nứt ra. Bệnh làm héo dây và nhánh.
- Tiêu hủy cây bệnh sau vụ thu hoạch. Tránh bón nhiều phân đạm, bệnh dễ phát triển và lây lan nhanh.
- Phòng trị bằng Topsin M, Manzate, Penncozeb, Ridomil, Derosal, Anvil, Copper B, Appencarb super 50 FL với nồng độ 1 - 2%o hoặc Tilt 250 EC, Nustar 40 EC từ 2-3cc /bình phun 8 lít. Tránh bón nhiều phân đạm, bệnh dễ phát triển và lây lan nhanh.
Bệnh đốm phấn (do nấm Pseudoperonospora cubensis)
- Vết bệnh hình đa giác có góc cạnh rất rõ, lúc đầu có màu vàng nhạt sau chuyển thành nâu; sáng sớm quan sát kỹ mặt dưới lá có tơ nấm màu trắng, vết bệnh lúc già rất giòn, dể vỡ. Bệnh thường xuất hiện từ lá già ở gốc đi lên lá non, phát triển mạnh vào thời điểm ẩm độ cao.
- Phun Curzat M-8, Mancozeb 80 WP, Copper-zinc, Zin 80WP, Benlate-C 50 WP hoặc Ridomil 25WP 1-2 %.
Lưu ý:
* Nồng độ 1-2%o = 10-20cc thuốc/bình 10 lít.

* Cần ngưng phun thuốc khoảng 7-10 ngày trước khi thu hoạch trái.

Tác giả: Nguyễn Văn Măng – TTKN (Nguồn: Khoa NN & SHƯD. ĐHCT